Phân loại Xenocyprididae

Danh pháp Xenocypridinae được nhà động vật học người Đức Albert Günther đặt ra như là một phân họ của họ Cá chép (Cyprinidae).[1] Trong một thời gian dài phân họ này là tương đối ít loài, với chỉ khoảng trên 10 loài trong 5 chi (Distoechodon, Hypophthalmichthys, Plagiognathops, Pseudobrama và Xenocypris). Trong một số nghiên cứu phát sinh chủng loài khác nhau người ta đã xác định rằng một số chi trước đây xếp trong phân họ Danioninae chỉ có quan hệ họ hàng rất xa với các chi có quan hệ họ hàng gần với chi điển hình Danio, và vì thế thường được gọi chung là tổ hợp các chi "ex-Danioninae",[2][3] cùng với các phân họ Cultrinae, Hypophthalmichthyinae, Opsariichthyinae, Squaliobarbinae và Xenocypridinae tạo thành một nhánh đơn ngành của các loài cá dạng cá chép ở Đông Á. Một số nhà ngư học đề xuất tên gọi Oxygastrinae cho nhóm này, dựa vào danh pháp Oxygastri Bleeker, 1860,[4][5] những người khác thì sử dụng tên gọi Opsariichthyinae.[6]

Tuy nhiên, các nhà ngư học Thụy Sĩ là Maurice Kottelat và Richard van der Laan cùng đồng nghiệp đã phát hiện ra rằng Hypophthalmichthyinae Günther, 1868 và Xenozypridinae Günther, 1868 là các tên gọi cổ nhất có sẵn cho đơn vị phân loại này và vì thế phải được ưu tiên hơn các tên gọi Opsariichthyinae và Oxygastrinae.[1][7] Tuy nhiên tên gọi Xenocypridinae được chấp nhận rộng rãi hơn, nên danh pháp Xenocyprididae được chấp nhận là tên gọi cho họ mới thành lập này.

Họ này nếu được công nhận sẽ bao gồm trên 40 chi với khoảng 150 loài, bao gồm các loài ex-Danioninae và các loài từ các phân họ Cultrinae, Hypophthalmichthyinae, Opsariichthyinae, Squaliobarbinae. Các thành viên Đông Á của phân họ Alburninae (nay là Leuciscinae) cũng được đặt trong Xenocyprididae.[8] Giống như nhiều phân họ khác của họ Cá chép, Xenocyprididae ngày càng được nhiều tác giả coi là họ khác biệt.[8][9][10]